Nghiên cứu và phát triển Douglas A-1 Skyraider

Douglas A-1E của Không quân Hoa Kỳ với cánh xếp tại Căn cứ Không quân McClellan, California, ngày 15 tháng 2 năm 1968.

Chiếc A-1 ban đầu được thiết kế nhằm đáp ứng những yêu cầu vào cuối Thế Chiến II về một kiểu máy bay ném bom bổ nhào/ném ngư lôi tầm xa một chỗ ngồi có tính năng cao hoạt động trên tàu sân bay. Được thiết kế bởi Ed Heinemann của hãng Douglas Aircraft Company, Skyraider được đặt hàng vào tháng 7 năm 1944 dưới tên gọi XBT2D-1. Đến tháng 4 năm 1945, một tháng sau chuyến bay đầu tiên ngày 18 tháng 3 năm 1945, nó được thử nghiệm đánh giá tại Trung tâm Thử nghiệm Không lực Hải quân Patuxent River (NATC). Đến tháng 12 năm 1946, sau khi được đổi tên thành AD-1, chiếc máy bay sản xuất đầu tiên được giao và trang bị cho hạm đội thuộc Phi đội VA-19A.

AD-1 được chế tạo tại nhà máy El Segundo của hãng Douglas ở Nam California. Trong quyển hồi ký The Lonely Sky, phi công thử nghiệm Bill Bridgeman mô tả công việc thường nhật nhưng đôi khi cũng nguy hiểm của việc kiểm nhận AD-1 vừa mới ra khỏi dây chuyền sản xuất (với tốc độ hai chiếc mỗi ngày) để giao cho Hải quân Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 1949-1950.

Thiết kế cánh đơn gắn thấp bắt đầu với kiểu động cơ Wright R-3350 bố trí hình tròn, sau này được nâng cấp nhiều lần. Đặc điểm phân biệt là sự hiện diện của bảy đế gắn trên mỗi cánh. Cánh thẳng và to cho phép có độ cơ động ở tốc độ chậm thật xuất sắc, và cho phép nó mang một lượng vũ khí rất lớn với tầm bán kính chiến đấu và thời gian trên không khá so với kích thước của nó, so sánh với những chiếc phản lực cận âm hay siêu âm nặng hơn nhiều. Chiếc máy bay được tối ưu cho nhiệm vụ tấn công mặt đất, và có vỏ giáp bảo vệ các điểm trọng yếu chống lại hỏa lực từ mặt đất, không giống như những máy bay tiêm kích nhanh hơn được cải tiến để mang bom như chiếc F4U Corsair hay P-51 Mustang, vốn bị cho nghỉ hưu khỏi các lực lượng quân đội Hoa Kỳ sớm trước những năm 1960.

Chiếc máy bay cánh quạt động cơ piston Skyraider là sự tiếp nối những máy bay ném bom bổ nhào và ném ngư lôi thời Thế Chiến II như HelldiverAvenger. Nó được thay thế trong thập niên 1960 bởi chiếc A-4 Skyhawk trong vai trò máy bay tấn công hạng nhẹ chủ lực của Hải quân. Được sử dụng tại Triều Tiên và một thời gian ngắn trên bầu trời Bắc Việt Nam, nó được dùng làm máy bay tấn công hỗ trợ mặt đất chủ lực của Không quân Mỹ và Không quân Nam Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam, trước khi được thay thế bởi các kiểu máy bay phản lực A-37 DragonflyA-7 Corsair II.